TRONG BỐI CẢNH ĐẤT NƯỚC ĐANG BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH, VIỆC ĐẨY MẠNH SỐ HÓA KHÔNG CHỈ LÀ YÊU CẦU TẤT YẾU MÀ CÒN MỞ RA MỘT LỘ TRÌNH MỚI ĐẦY TRIỂN VỌNG ĐỂ DI SẢN VĂN HÓA ĐƯỢC GÌN GIỮ BỀN VỮNG VÀ LAN TỎA SÂU RỘNG HƠN TRONG ĐỜI SỐNG ĐƯƠNG ĐẠI.

Hà Nội – vùng đất ngàn năm văn hiến, đây không chỉ là nơi lưu giữ khối lượng di sản đồ sộ bậc nhất cả nước, mà còn đi đầu trong ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, việc số hóa di sản tại Thủ đô hiện vẫn còn đối mặt với không ít rào cản. Do vậy, trong bối cảnh cả nước đang thúc đẩy chuyển đổi số ngành văn hóa, Hà Nội cũng cần thực hiện ngay để làm tấm gương đi đầu, làm mẫu cho cả nước.

Do vậy, đề án chuyển đổi số lĩnh vực văn hóa mà Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phải trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 12.2025 không chỉ mang tính kế hoạch hành động, mà còn mang tính chiến lược – định hướng lâu dài, nhằm thiết lập một hệ quy chiếu cơ bản về chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, từ tư duy, nhận thức, tầm nhìn, cách tiếp cận, đến hành động và mô hình triển khai. Đây là nền tảng để toàn ngành văn hóa thống nhất về định hướng và từng bước hiện thực hóa chuyển đổi số một cách phù hợp, đồng bộ, hiệu quả và nhân văn.

Cũng tại Hội thảo, ông Nguyễn Thành Phúc – Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ – nhận định, chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để chuyển đổi mô hình hoạt động của cơ quan, tổ chức trong ngành văn hóa theo hướng hiện đại, sáng tạo nhằm đạt hiệu quả đột phá, tạo giá trị mới.
Ông Nguyễn Thành Phúc cho rằng, việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành văn hóa cần đặc biệt chú trọng đến công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), vì AI sẽ có tác động lớn, đem lại đột phá về năng lực sản xuất, cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển của văn hóa.


Luật Di sản văn hoá 2024 được Quốc hội thông qua ngày 23.11.2024, chính thức có hiệu lực vào ngày 1.7.2025, gồm 9 chương, 95 điều, tăng 2 chương, 22 điều. Luật đã thể chế hóa đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về văn hóa, di sản văn hóa, thể hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Một điểm nhấn quan trọng của Luật Di sản văn hóa 2024 là các quy định liên quan đến việc chuyển đổi số, số hóa di sản văn hóa, phát huy giá trị di sản trên môi trường điện tử.

Nhận định về vấn đề này, PGS.TS Phạm Ngọc Trung – Giảng viên cao cấp, nguyên Trưởng khoa Văn hóa và Phát triển, Học viện Báo chí và Tuyên truyền – cho rằng, Luật Di sản văn hóa năm 2024 mang tinh thần kế thừa từ luật cũ, song điểm nhấn nổi bật và đáng chú ý nhất chính là chủ trương đẩy mạnh số hóa di sản văn hóa trên môi trường điện tử. Nếu như trước đây, các giá trị di sản chỉ hiện hữu trong không gian truyền thống, gắn chặt với địa phương, thì nay, bằng việc “dịch chuyển” vào không gian số, di sản đã có cơ hội lan tỏa mạnh mẽ hơn, vươn mình ra thế giới.
Luật mới đặt trọng tâm vào việc tích hợp toàn bộ thông tin quan trọng liên quan đến di sản, từ hệ thống quản lý nhà nước cho đến các đơn vị khai thác như ngành du lịch. Theo ông, chính quá trình tích hợp, số hóa này đã và đang mở ra một không gian giao tiếp mới giữa con người và các giá trị văn hóa – một không gian không giới hạn về địa lý, thời gian. Nhờ đó, di sản có thể được truyền tải nhanh hơn, chính xác hơn, đồng thời tiết kiệm đáng kể về nhân lực và chi phí mà vẫn đảm bảo hiệu quả truyền thông.
Hà Nội – Thủ đô ngàn năm văn hiến – là mảnh đất hội tụ vô vàn di sản văn hóa, lịch sử quý giá. Nhưng để tiếp cận hết những giá trị ấy theo cách truyền thống, cần rất nhiều thời gian và điều kiện. Bản thân ông, một người sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, đã đi nhiều, sống nhiều, nhưng vẫn chưa chắc đã đi hết những điểm di sản của Thủ đô. Giờ đây, nhờ ứng dụng công nghệ hiện đại, việc tích hợp di sản vào môi trường số đã mở ra cánh cửa tiếp cận nhanh chóng, thuận tiện, mọi lúc, mọi nơi cho người dân và du khách.

PGS.TS Phạm Ngọc Trung dẫn chứng cụ thể, chỉ với một chiếc điện thoại thông minh, bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu sâu về các di tích như Nhà tù Hỏa Lò, Thành Cổ Loa, Hoàng thành Thăng Long hay Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Chính công nghệ đã kéo di sản lại gần với con người hơn bao giờ hết. Đặc biệt, với du khách quốc tế chỉ lưu lại Hà Nội trong vài ngày ngắn ngủi, số hóa chính là “chìa khóa” để họ chạm vào những giá trị văn hóa cốt lõi, cảm nhận được chiều sâu lịch sử và tình cảm của người Việt. Từ đó, khơi dậy tình yêu với đất nước, con người Việt Nam và cảm giác gần gũi như quê hương thứ hai.
Số hóa không chỉ là phương tiện kỹ thuật, mà là con đường mới để di sản được bảo tồn và phát huy giá trị. Khi được làm tốt, số hóa sẽ giúp nâng cao tốc độ lan tỏa, bảo đảm tính chính xác và mở rộng khả năng tiếp cận đến mọi tầng lớp nhân dân.

Nhận xét về Luật Di sản văn hóa 2024, Nhà nghiên cứu văn hóa – TS. Nguyễn Thị Ánh Hồng (Học Viện Báo chí và Tuyên Truyền) đánh giá cao điểm mới liên quan đến số hóa di sản trên môi trường điện tử.
Bà cho rằng, đây là hướng đi “đi tắt, đón đầu” phù hợp với xu thế phát triển. Đặc biệt tại Hà Nội, nơi tập trung kho tàng di sản văn hóa dày đặc cả về vật thể và phi vật thể, việc chuyển đổi số càng trở nên cấp thiết và cần triển khai bài bản. Số hóa di sản phải gắn chặt với khoa học công nghệ, internet, không gian mạng, Luật An ninh mạng và yêu cầu đảm bảo an toàn thông tin. Bởi vậy, không chỉ cần đẩy mạnh số hóa, mà Hà Nội còn cần tăng cường quản lý di sản văn hóa trên các nền tảng công nghệ điện tử. Đây là yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn, từ bối cảnh hội nhập và phát triển, từ hệ quả của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
“Đảng đã xác định rõ: chuyển đổi số là nhiệm vụ then chốt, còn khoa học công nghệ là chìa khóa thúc đẩy vận động phát triển kinh tế – xã hội. Chính vì thế, tại Hà Nội số hóa cần được triển khai nhanh chóng, hiệu quả cao, để biến di sản thành nguồn lực, thành xung lực phát triển đất nước, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới” – TS. Nguyễn Thị Ánh Hồng nhận định.
PGS.TS Trần Trọng Dương – Giảng viên Trường Ngoại ngữ – Du lịch, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội – cũng đưa ra khuyến nghị, để có thể thực hiện chương trình số hóa di sản tại Hà Nội nói riêng và trên toàn quốc nói chung, cần một lộ trình bài bản, hệ thống, có tính chiến lược và kế thừa. Trước hết, phải có đội ngũ “kiến trúc sư tổng thể” – gồm các nhà nghiên cứu, nhà quản lý và kỹ thuật viên giàu kinh nghiệm – xây dựng một khung pháp lý, bộ tiêu chuẩn kỹ thuật, phương pháp thực hiện, định hướng tổng thể cho toàn bộ chương trình số hóa. Việc triển khai phải theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương.
Trong đó, yếu tố quan trọng nhất là đào tạo con người. Các cán bộ văn hóa Hà Nội cần được trang bị kiến thức cơ bản về pháp lý, kỹ thuật, chuyên môn để thực hiện tốt các nhiệm vụ như sưu tầm số, bảo tồn số, quản lý số và bảo đảm an ninh dữ liệu, an ninh mạng. Giai đoạn đầu của chương trình phải đi chậm, chắc, có tính hệ thống và được triển khai đồng bộ tại các di tích trong nội thành và cả ngoại thành. Việc triển khai này dù tốn thời gian, công sức nhưng sẽ tạo nền tảng vững chắc. Đồng thời, cũng cần tính đến phương án đào tạo trọng điểm theo địa phương, theo đặc thù từng loại hình di sản và bố trí kinh phí tương ứng.

Bên cạnh đó, ngoài việc số hóa di tích, di sản tại Hà Nội, cũng cần sớm xây dựng cơ sở dữ liệu di sản toàn quốc trên nền tảng liên thông thống nhất, thông qua một cổng thông tin quốc gia. Các cơ sở dữ liệu số cần được thiết kế vững chắc, có khả năng duy trì lâu dài, tránh tình trạng sau vài năm đã lạc hậu hoặc không còn sử dụng được, gây lãng phí nguồn lực và công sức.

Trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên vươn mình với khát vọng phát triển hùng cường, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Hà Nội không chỉ là gìn giữ quá khứ, mà còn là tạo dựng nền tảng cho tương lai. Mỗi di sản – đều chứa đựng tinh hoa, bản sắc và trí tuệ của cha ông, là cội nguồn sức mạnh mềm để cả Hà Nội và Việt Nam khẳng định vị thế trên bản đồ văn hóa thế giới. Cùng với đó, việc đẩy mạnh phát triển văn hóa nói chung, trong đó có chuyển đổi số, sáng tạo văn hóa, xây dựng con người mới, đang trở thành động lực quan trọng cho phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.
PGS.TS Phạm Ngọc Trung nhận định – kỷ nguyên vươn mình là giai đoạn đặc biệt, không chỉ hô khẩu hiệu mà phải có thành tựu cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính kỷ nguyên số hóa giúp đất nước ta phát triển mạnh mẽ, toàn diện và nhanh chóng hòa mình với các cuộc cách mạng công nghệ của thế giới.
Trước đây, Việt Nam chưa có điều kiện tham gia sâu các cuộc cách mạng công nghiệp, nhưng giờ, chúng ta chủ động trong cuộc cách mạng số. Môi trường số giúp tiết kiệm thời gian, nhân lực, tài chính. Nhờ đó, mọi người – từ kỹ sư, sinh viên đến người lao động – đều có thể học tập, sáng tạo, tiếp thu nhanh chóng tri thức nhân loại. Trước đây, một phát minh ở châu Âu phải mất 5 – 30 năm mới đến được Việt Nam, thì nay chỉ cần vài phút là có thể tiếp cận. Nếu tận dụng tốt thời cơ, Hà Nội và cả Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành cường quốc ở một số lĩnh vực trong tương lai.
Trong khuôn khổ buổi Hội nghị tổng kết năm 2024, triển khai nhiệm vụ năm 2025 của ngành VHTT&DL, Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương – nhận định, văn hóa là linh hồn, cốt lõi định hình bản sắc dân tộc, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, nền tảng cho sự phát triển trường tồn của dân tộc.
Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên hội nhập và phát triển mạnh mẽ, văn hóa Việt đứng trước nhiều thời cơ cũng như thách thức quan trọng, đòi hỏi những giải pháp, hành động cấp thiết để thúc đẩy sự phát triển, vươn mình trên trường quốc tế, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Như vậy, có thể thấy rằng, số hóa văn hóa tại Hà Nội là một vấn đề cấp thiết. Trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên vươn mình, việc đẩy mạnh số hóa không chỉ là yêu cầu tất yếu mà còn mở ra một lộ trình mới đầy triển vọng để di sản văn hóa được gìn giữ bền vững và lan tỏa sâu rộng hơn trong đời sống đương đại. Với Hà Nội – vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi lưu giữ lớp lớp trầm tích văn hóa, việc số hóa di sản không chỉ giúp bảo tồn nguyên trạng mà còn là chìa khóa để đánh thức những giá trị đang bị lãng quên, làm sống dậy ký ức lịch sử trong môi trường công nghệ số.
Tuy nhiên, để quá trình này thực sự hiệu quả và đi vào chiều sâu, cần sự vào cuộc đồng bộ từ chính quyền, các cơ quan chuyên môn đến cộng đồng dân cư – những người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là người hưởng thụ và bảo vệ di sản. Chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, nếu được đầu tư đúng hướng, không chỉ là giải pháp bảo tồn mà còn là cơ hội phát triển kinh tế sáng tạo, du lịch bền vững, góp phần đưa văn hóa Hà Nội lan tỏa mạnh mẽ trong nước và trên trường quốc tế.
Cre: Báo Lao Động
